Cờ vây xưa vả nay Cầm, Kỳ, Thư, Họa, là bốn bộ môn nghệ thuật văn hóa của Trung Hoa thời xưa. Kỳ chính là chỉ về Vi Kỳ, có nghĩa là cờ vây, mà ngày nay chúng ta gọi giản dị là cờ Go, nó là một phần trong lịch sử nền văn minh hằng ngàn năm của Trung Hoa.
Cờ vây là loại cờ cổ, được chơi cách đây khoảng hơn 4000 năm. Khởi thủy của môn cờ bắt đầu từ giấc mơ của vua Nghiêu về việc xem chơi cờ giữa Hoàng Đế (người mở đầu thời Ngũ Đế) với vị tiên Dung Thành. Sau khi tỉnh lại, vua ngẫm ra thấy hay quá bèn tìm cách nhớ lại và bổ khuyết thêm các quy tắc, luật lệ và sáng tạo ra môn cờ vây, vì mục đích của nó là vây chiếm lãnh thổ, đất đai. Sau đó, cờ vây được thái tử Đan Chu, con của vua Nghiêu truyền bá khắp thiên hạ. Trong truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung, Quan Công đã chơi cờ vây với thuộc hạ trong khi để cho Hoa Đà nạo xương cánh tay chữa vết thương. Vi kỳ ngày xưa gọi là "dịch" (弈), được viết với bộ "củng". Trong những sách cổ của Trung Hoa như Tả Truyện, Luận Ngữ, Mạnh Tử đã nhắc nhiều đến "dịch" nhưng từ đời Nhà Hán trở đi, thì cái tên vi kỳ ngày càng thông dụng. Hứa Thuận trong Thuyết Văn Giải Tự có chép "dịch, vi kỳ dã".rong sách “Tả truyện”, sách “Luận Ngữ” của Khổng Tử, và sách “Mạnh Tử”, cũng chỉ rõ rằng cờ vây rất thịnh hành ở thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc. Vào lúc phồn thịnh nhất của triều đại nhà Đường, cờ vây cũng được phát triển rất nhiều. Vua Đường Huyền Tông đặc biệt đặt ra một chức quan trông coi về bộ môn cờ vây, gọi là “Kỳ đãi chiếu”, chức quan này mang bậc cửu phẩm, cùng với chức quan “Họa đãi chiếu”(trông coi tranh vẽ), và “Thư đãi chiếu” (trông coi thư pháp) đều thuộc về Hàn Lâm viện, do đó mới có tên chung là Hàn Lâm
Cờ vây hiện nay rất phổ biến ở vùng Đông Á. Nhật hiện nay là nước có số người chơi cờ rất cao. Cờ vây đã tới Nhật vào thế kỷ 7 và tới đầu thế kỷ 13, nó đã được chơi rộng rãi khắp mọi nơi trên đất nước này. Sự phát triển của Internet cũng đã làm cho nó phổ biến hơn trên khắp thế giới và đến nay đã có 36 triệu người yêu thích môn cờ này (thống kê của Hiệp hội cờ Vây nghiệp dư thế giới năm 1999).
Môn cờ vây cũng đã được người Việt Nam biết tới từ lâu, nhưng qua thời gian, chiến tranh nên đã hầu như không còn ai biết cách chơi. Nó được phổ biến lại tại Việt Nam vào năm 1993 nhân dịp có một giảng viên không chuyên từ Trung Quốc sang giảng dạy giúp cho ngành Thể dục thể thao Hà Nội.
Đặc điểm Cờ vây có từ xa xưa, nhưng không hề bị biến đổi theo thời gian như những trò chơi cổ khác. Lý do là luật chơi của cờ vây hết sức đơn giản, người nào cũng có thể chơi được, không cần đến trí thông minh ưu việt. Trong cờ vây, quân nào cũng như quân nào, giá trị y hệt nhau, không quân nào có tên tuổi, không có vua, có tướng. Cờ vây, muốn biết chơi thì quá dễ, nhưng để chơi tới được thành "cao cờ" thì rất khó. Tuy chỉ có 2 loại quân cờ đen và trắng, và luật chơi cũng rất đơn giản nhưng sự huyền diệu của nó lại vượt xa hơn cả bất cứ loại cờ nào. Chỉ có 361 điểm cho quân cờ, nhưng sự biến ảo là hầu như vô tận. Trầm Quát viết trong sách “Mộng Khê Bút Đàm”, khi bàn đến số lượng biến ảo của cờ vây đã nói rằng “nó lên tới con số 3 luỹ thừa 361 lần”
Một số những thầy chơi cờ vây giỏi ngày nay cho rằng bàn cờ vây nhìn giống như một vũ trụ, do 360 thiên thể họp lại mà thành. Có 19 đường dọc và 19 đường ngang trên bàn cờ, và 361 điểm tổng cộng. Một điểm dư ở trung tâm, gọi là Thiên Nguyên, tức là Thái Cực, đại biểu cho trung tâm của vũ trụ. Con số 360 chính là số ngày trong một năm âm-lịch, được chia ra làm bốn. Bốn góc là xuân, hạ, thu, đông. Con cờ hình tròn, phía trên nhô lên, phía dưới phẳng ngang, phân biệt nhau bằng hai mầu trắng và đen, tượng trưng cho Âm và Dương. Như vậy cả bàn cờ giống như là hình tượng biến hóa của Trời và Đất .
NHỮNG ĐIỀU LUẬT CƠ BẢN
Cờ Vây có 9 điều luật cơ bản Điều 1 : Cờ Vây là trò chơi giữa hai đối thủ.
Điều 2 : Một đấu thủ cầm quân Trắng còn đấu thủ kia cầm quân Đen. Bên Đen đi trước (trừ trường hợp chấp quân thì bên Trắng đi trước).
Điều 3 : Quân cờ được đặt vào giao điểm của các đường kẻ.
Điều 4 : Mỗi một quân cờ khi đã đặt vào vị trí thì không được phép di chuyển nữa (trừ trường hợp bị bắt làm tù binh, bị nhấc ra ngoài, sẽ nói ở điều 6).
Điều 5 : Đấu thủ nào chiếm được nhiều đất hơn, thì thắng ván cờ.
Điều 6 : Các quân cờ bị đối phương làm cho hết “khí” thì gọi là “tù binh” và bị nhấc ra khỏi bàn cờ.
Điều 7 : Không được đặt quân vào vị trí không còn “khí”(trừ trường hợp ăn quân, sẽ nói sau).
Điều 8 : Có những quy ước đặt biệt cho trường hợp “tranh chấp” lẫn nhau, được gọi là “ko”(sẽ giải thích sau).
Điều 9 : Sẽ có những điều luật riêng cho việc đánh có chấp.